Các yếu tố quyết định sức khỏe cơ bản của trẻ khi sinh ra có liên quan đến tuổi của bà mẹ lúc bắt đầu có con, điều kiện dinh dưỡng của bà mẹ trong thời kỳ có thai rồi cho con bú.
Các yếu tố quyết định sức khỏe cơ bản của trẻ khi sinh ra có liên quan đến tuổi của bà mẹ lúc bắt đầu có con, điều kiện dinh dưỡng của người mẹ trong thời kỳ có thai rồi cho con bú, tình trạng sức khỏe của bà mẹ khi có thai và nuôi con, điều kiện lao động và môi trường sống của bà mẹ mang bầu và sẽ cho con bú. Cần lưu ý đến 4 yếu tố này để trẻ ra đời được khỏe mạng và phát triển tốt.
Theo các nhà khoa học, thời kỳ chu sinh được xem từ khi thai được 28 tuần tuổi cho tới khi trẻ sinh ra trong 7 ngày đầu. Do đó khi tính tỉ lệ tử vong chu sinh thì phải tính đến tất cả những trường hợp sảy thai, thai chết lưu và số trẻ chào đời trong 7 ngày đầu có dấu hiệu sống. Chăm sóc chu sinh còn được xem là chăm nom trẻ từ trong thai nhi và trong 7 ngày đầu sau khi trẻ chào đời đời.
Chăm sóc chu sinh cũng đã được gọi là chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ để bảo quản và phát triển sức khỏe cho con. Hiện nay việc chăm nom chu sinh không phải bắt đầu từ khi đứa trẻ vào thời kỳ chu sinh như: đã nêu ở trên mà bắt đầu sớm hơn rất nhiều. Các nhà khoa học đã minh chứng rằng những yếu tố di truyền, chủng tộc, nòi giống có ý nghĩa lớn đến các nhân tố bẩm sinh của sức khỏe trẻ sinh ra. Các yếu tố khác như tuổi tác, điều kiện dinh dưỡng của bà mẹ khi mang thai, sức khỏe và điều kiện lao động của người mẹ… là các yếu tố quyết định đến sức khỏe cơ bản của trẻ. Nhiều nước trên toàn cầu đã bắt đầu thực hiện chăm sóc chu sinh bằng những giải pháp không trùng lặp như dạy dỗ di truyền, dạy dỗ hôn nhân và gia đình…
Các yếu tố quyết định sức khỏe cơ bản của trẻ khi sinh ra có liên quan đến tuổi của bà mẹ lúc bắt đầu có con, điều kiện dưỡng chất của người mẹ trong thời kỳ có thai rồi cho con bú, tình trạng sức khỏe của bà mẹ khi có thai và nuôi con, điều kiện lao động và môi trường sống của bà mẹ có bầu và cho con bú. Mỗi nhân tố có một số vấn đề cần phải được quan tâm thực hiện.
Tuổi của người mẹ khi bắt đầu có con
Các nhà khoa học khuyến nghị người phụ nữ chỉ nên bắt đầu có con khi cơ thể đã phát triển hoàn chỉnh. Chiều cao con người lớn lên với vận tốc kịp thời nhất là trong quá trình phát triển ở thai nhi và trong 3 năm đầu. Ở thời kỳ này, trẻ đã có những cơ sở hoàn thành được 50% chiều cao vĩnh viễn của mình. Sau đó cơ thể vẫn tiếp tục lớn lên và phát triển cho tới 25 tuổi.
Người phụ nữ lấy chồng sớm và sinh con sớm sẽ khiến ngừng công đoạn phát triển bình thường này. Chiều cao của trẻ lệ thuộc vào độ cao của người mẹ. Trên thực tế ghi nhận ở các nước nghèo và kém phát triển, dân tộc đó thường thấp và lùn; hiện tượng này còn phụ thuộc vào tập quán phụ nữ lấy chồng sớm và sinh nở sớm khi cơ thể chưa hoàn toàn trưởng thành.
Theo điều kiện sinh lý, cơ thể của người phụ nữ sau 30 tuổi đã bắt đầu có hiện tượng thoái hóa, nhất là sau 35 tuổi. Nếu trong thời gian này sinh con, đứa trẻ dễ bị các rối rắm gen, điển hình là trẻ bị hội chứng Down đi cùng các dị tật bẩm sinh và chậm phát triển thể chất, tinh thần. Do đó tuổi sinh sản của người phụ nữ tốt đặc biệt là từ 25 – 30. Nếu độ cao của bà mẹ dưới 140cm thì khi đẻ con sẽ gặp phải biết bao hiện tượng xấu.
Điều kiện dưỡng chất của bà mẹ trong thời kỳ có bầu và cho con bú
Các nhà khoa học khẳng định nhân tố dinh dưỡng của người mẹ quyết định sự đi lên sức khỏe của người con khi sinh ra. Nhu cầu dinh dưỡng của bà mẹ trong quá trình mang thai và sẽ cho con bú phải tăng hơn lúc bình thường. Nhu cầu về năng lượng trong 1 ngày của người phụ nữ bình thường là 2.200kcal, lúc có thai cần 2.550kcal và khi cho con bú cần đến 2.750kcal. Nhu cầu về chất đạm, vitamin A, vitamin C, sắt, canxi cũng tăng lên. Theo đó, bà mẹ phải ăn tăng hơn mức bình thường lúc có thai và khi cho con bú để bảo hiểm nhu cầu về năng lượng luôn phải có cũng như chất đạm, vitamin A, vitamin C, nhất là canxi.
Vai trò của chất đạm trong trường hợp này đặc biệt cần thiết để tạo ra chiều cao của đứa trẻ và phát triển tế bào trung khu thần kinh của vỏ não. Các nhà khoa học ghi nhận trong công đoạn mang bầu nếu người mẹ ăn nhiều chất bột, con chào đời cũng nặng cân nhưng chiều cao sẽ không được cải thiện hơn độ cao của cha mẹ. Quá trình gián phân tế bào tạo ra số lượng tế bào tâm thần sọ não chủ đạo cũng xảy ra trong thời kỳ bào thai và 3 tháng thứ nhất sau khi sinh. Sau đó các tế bào thần kinh chỉ lớn lên mà không sinh thêm về con số của nhân tế bào. Do đó chất đạm của người mẹ ăn trong khi mang bầu không chỉ quyết định sự phát triển tốt độ cao của đứa trẻ mà còn quyết định cả trí lực và tinh thần của trẻ lâu dài về sau. Cần chống các tập tục ăn kiêng khem khi mang thai, người mẹ ăn kiêng cữ sẽ dẫn đến bệnh thiếu vitamin B1, bệnh quáng gà vì thiếu vitamin A, dự phòng ít vitamin A ở gan trẻ từ thai nhi sẽ dễ chào đời chứng mù lòa sau này.
Tình trạng sức khỏe của người mẹ khi mang bầu và nuôi con
Trong 3 tháng trước mắt của thời kỳ phôi thai là thời kỳ biệt hóa, nếu bà mẹ bị nhiễm một số bệnh cấp tính như cúm, sốt cảm… cũng cũng có thể có thể gây nên tai biến đối với thai nhi với những dị tật bẩm sinh như: sứt môi, hở hàm ếch, tật tim bẩm sinh, tật thận bẩm sinh… Vì vậy khi vừa tắt kinh, có biểu lộ dấu hiện mang thai, người mẹ cần đi khám ngay để xác định và khuyến cáo dự phòng tiên lượng các trường hợp cũng có thể có thể sinh ra người con không bình thường.
Từ tháng thứ 4 trở đi, nếu bà mẹ mắc các bệnh kinh niên như: viêm thận, viêm gan, thấp tim, lao, sốt rét, thiếu máu… thì đều có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe của thai nhi. Vì vậy các nhà khoa học khuyến nghị người phụ nữ chỉ nên có con khi có trạng thái sức khỏe tốt, tốt nhất là cả hai vợ chồng đều khỏe mạnh. Đồng thời một số bệnh tình của người mẹ có thể lan truyền cho con qua nhau thai, qua con đường máu như viêm gan virút, HIV/AIDS, giang mai…
Nếu bà mẹ bị bệnh lậu, đứa con sinh ra có thể bị truyền nhiễm bệnh lậu và mù mắt. Nếu người mẹ bị bệnh giang mai, người con sinh ra sẽ mắc bệnh giang mai bẩm sinh. Trẻ em bị truyền nhiễm HIV/AIDS từ máu người mẹ bị bệnh là nguy cơ lớn nhất của thời buổi hiện nay. Ngoài ra trong số vùng có bệnh sốt rét lưu hành, nhau thai bà mẹ bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét làm cho thai nhi kém phát triển, cũng có thể có thể gây sảy thai, thai chết lưu hoặc sinh non. Sau mỗi đợt sinh, người mẹ phải mất thời gian khoảng 3 năm mới phục hồi được sức khỏe, nếu điều kiện sinh đẻ dày hơn thì thai nhi sau này sẽ kém phát triển.
Điều kiện lao động và môi trường sống của người mẹ mang thai rồi cho con bú
Thực tế cường độ lao động vất vả của bà mẹ mang bầu sẽ tiêu hao biết bao năng lượng cần được dự trữ cho bào thai. Các nhà khoa học đã giám sát được sự lên cân của người mẹ khi có bầu ở những nước có nền kinh tế khác nhau và ghi nhận rõ ảnh hưởng của chúng đến mức độ cân nặng của trẻ lúc mới sinh. Ở những nơi thiếu ăn, điều kiện lao động nặng, sự trọng lượng của thai nhi luôn luôn bị suy giảm. Trong hơn 9 tháng mang thai, chừng độ khối lượng của người mẹ tối thiểu phải tăng được 12,5kg; trong đấy 7,5kg là bào thai, nhau thai, nước ối; 5kg là số dư của chất mỡ dự phòng được béo ra trong qui trình này sẽ là nguồn năng lượng dành lại để tiết sữa, nuôi con sau khi sinh. Ở những nước nghèo, thiếu ăn; người phụ nữ mang thai chỉ tăng từ 6 – 7kg nên sau kia thường không có sữa để nuôi con.
Quá gửi lên cân của người mẹ có bầu thường xảy ra bình thường theo chừng độ 3 tháng đầu chỉ lên 1kg, 3 tháng tiếp theo lên 5kg và 3 tháng cuối cùng lên 6kg. Mức trọng lượng tăng tối đa là các tháng cuối của thai kỳ. Lúc này trẻ lớn nhanh, bà mẹ nên tránh lao động nặng để dành sức lực cho việc sinh con và dành năng lượng cho bào thai phát triển lên cân tốt. Thực tế mức khối lượng của bà mẹ trước khi mang bầu dưới 40 kg được tính là thuộc diện có nguy cơ cao khi sinh đẻ.
Những bà mẹ mang bầu phải lao động vất vả cho tới ngày sinh, môi trường làm việc không an toàn như trường hợp chạm với phân bón, thuốc bảo quản thực vật, độc tố hóa học dioxin; có các tập quán xấu như uống rượu, hút thuốc lá… sẽ làm ảnh hưởng lớn đến sự đi lên của thai nhi. Một số thuốc kháng sinh như tetracycline có công dụng gây quái thai, phá hỏng mầm thai; thuốc prednisolone là một loại corticoide cấm chưa được sử dụng cho bà mẹ mang bầu và sẽ cho con bú vì sẽ khiến trẻ bị loãng xương, chậm lớn.
Khi mang thai, người mẹ cần nhiều không khí và ánh sáng. Những nơi làm việc ồn ào, bụi bặm, thiếu ánh sáng, thiếu không khí sẽ khiến bào thai phát triển chậm. Có những trường hợp trẻ bị còi xương bẩm sinh do bà mẹ có bầu luôn luôn ở trong nhà, trốn ánh nắng nên bị thiếu vitamin D.
Theo SKĐS
Sưu Tầm: Internet